Một
trong những yếu tố gây căng thẳng cho Hector chính là khuynh hướng mà
anh ta mơ hồ về những kỳ vọng của Larry và người khác dành cho mình.
Hector đoán rằng vai trò của anh ta là thực hiện theo sự chỉ bảo của nhà
quản lý và rằng việc đưa ra các ý kiến của riêng mình không phải là
phần việc của anh ta. Khi Larry và Hector bàn luận lại những gì Hector
coi là kỳ vọng của ông, tình hình đã được ổn định lại và Hector có thể
xác định hoàn toàn rõ ràng về những kỳ vọng của ông sếp đối với mình.
Lấp hố ngăn cách bằng các hình ảnh ẩn dụ
Hầu
hết mọi người đều dùng phép ẩn dụ trong cuộc sống và công việc. Là một
nhà quản lý, bạn phải coi tổ chức của mình như một sân chơi với các Nhóm
và cá nhân cạnh tranh nhau, hoặc giống như một đấu trường nơi các phái
xung khắc cố gắng triệt hạ nhau, hoặc như một đại dương rộng lớn nơi moị
người cố gắng chèo thuyền vượt qua dòng nước yên lặng mà xảo trá, hay
như một nông trang tuyệt đẹp nơi nhiều lọai cây trồng phát triển. Mỗi
hình ảnh trong các phép ẩn dụ này sẽ có những hàm ý khác nhau về
nhà quản lý. Nếu trong phép ẩn dụ này, bạn là một huấn luyện viên thì
trong phép ẩn dụ sau, bạn lại là một vị tướng quân, ở ẩn dụ
tiếp theo lại là một thuyền trưởng và trong hình ảnh cuối cùng, bạn
lại giống như một người nuôi trồng những thứ đang phát triển.
Ý
thức về cá tính của bạn với tư cách là nhà quản lý sẽ giúp bạn có cách
ứng xử hiệu quả khi phải cạnh tranh với ý thức về cá tính của các nhân
viên dưới quyền hay các đồng nghiệp, và cả với cấp trên của bạn trong tổ
chức (trong một vài trường hợp). Vị huấn luyện viên hy vọng vào thái độ
cạnh tranh quyết liệt của các thành viên trong Đội. Nếu những thành
viên trong tổ chức không thấy họ là những đấu thủ có khả năng thì sẽ
không thể có thái độ cạnh tranh quyết liệt. Như mỗi hình ảnh ẩn dụ đưa
ra phía trên, những kỳ vọng của lãnh đạo xuất phát từ ý thức về cá tính
của họ, và kết quả đạt được sẽ phụ thuộc phần lớn vào mức độ hòa hợp
giữa những mong đợi và sự tự ý thức về cá tính của các nhân viên
dưới quyền.
Hãy
nghĩ tới quan điểm của chính bạn về một tổ chức và vai trò của bạn
trong tổ chức ấy với tư cách một nhà quản lý. Liệu bạn có biết các so
sánh của bạn về tổ chức có khớp với cách so sánh ẩn dụ của các nhân viên
dưới quyền? Nếu không, bạn có thể cùng họ khám phá. Quá trình
này có thể được khai sáng và dẫn đến vài cải thiện trong cách thực
hiện công việc và thái độ của họ. Nếu có cơ hội, theo cách này hay cách
khác, bạn hãy sẵn sàng nói về sự so sánh ẩn dụ của bạn với người khác và
họ sẽ thường phản ứng với những gì bạn nói. Ví dụ bạn có xu hướng xử
dụng thuật ngữ như “ Đội” hay “chuỗi yêu cầu” hay những cụ từ như “lập
kế hoạch” hoặc “tạo cho họ cơ hội phát triển”. Bạn có thể nghĩ đến nhiều
hình ảnh mà bạn và người đối thoại đang sử dụng và chuyển tải nó
thành một phép ẩn dụ có thể chấp nhận được. Đôi khi bạn cũng
có thể khám phá ra những từ ngữ ẩn dụ bằng cách để ý đến những gì mình
nói. Và những người khác có lẽ cũng đang làm giống bạn.
Hơn
thế nữa, điều có thể trở nên quan trọng là hãy xem xét những thay đổi
có thể xảy ra trong hình ảnh ẩn dụ về tổ chức của bạn khi những thứ xung
quanh mình thay đổi. Hình ảnh ẩn dụ bạn đưa ra có thể không còn thích
hợp với thế giới kinh doanh ngày nay hoặc nó hạn chế nhiều đến sự phát
triển của bộ phận hoặc công ty bạn phụ trách. Ví dụ, hình ảnh ẩn dụ coi
công ty là một gia đình có thể hoạt động rất tốt trong một doanh nghiệp
nhỏ nhưng sẽ trở nên khác thường nếu công ty đó phát triển về quy mô.
Lại nữa, khi bạn tuyển dụng nhân viên, hình ảnh ẩn dụ sẽ rất có giá trị
nếu bạn biết họ coi mình là gì trong tư cách là thành viên trong tổ
chức.
Hector
coi công ty nơi anh làm việc giống như một gia đình, trong khi những
người khác xung quanh anh, bao gồm cả ông sếp lại nhìn công ty theo một
cách khác. Có thể là nếu như Larry biết được điều ông bây giờ
mới biết về Hector thì ông đã không tuyển dụng anh ta ngay từ
đầu; nhưng cũng có thể là ông đã làm một việc tốt hơn để
giúp Hector hoà nhập vào môi trường làm việc ngay từ lúc mới
bắt đầu.
Lời khuyên được đưa ra ở đây là: Một
nhà quản lý càng hiểu và biết chắc về hình ảnh ẩn dụ mà nhân viên so
sánh với vị trí của mình trong tổ chức thì ông ta sẽ giúp phát huy tốt
hơn phẩm chất của nhân viên đó.
CHÚ Ý ĐẾN NHỮNG DẤU HIỆU CĂNG THẲNG (STRESS)
Cho
đến khi Larry có thể giúp Hector thoát ra được tình trạng khó khăn hiện
tại thì anh ta vẫn đang phải trải qua những giai đoạn căng thẳng
(stress). Vấn đề càng kéo dài thì mọi người càng cảm thấy căng thẳng và
thái độ hành xử của Hector ngày càng tồi tệ hơn.
Mọi
người thường đối mặt với căng thẳng bằng những hành vi ứng xử quen
thuộc đã từng có hiệu quả trong quá khứ. Ngay cả khi hành vi ứng xử này
không còn hiệu quả trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, nó vẫn
được cố sử dụng do không có hành vi ứng xử thay thế. Phản ứng của người
khác sẽ chỉ làm tăng sự căng thẳng, khiến cái thòng lọng trở nên thít
chặt hơn để rồi dẫn đến tác động ngược lại, khiến nhiều hành vi ứng xử
tương tự xảy ra nhiều hơn. May mắn là Larry đã nắm bắt được được các
dấu hiệu căng thẳng của Hector, ông đã hành động để cắt đứt cái thòng
lọng đang thít lên cổ anh ta và hướng quá trình này theo hướng tích cực
hơn.
Trong
vài trang tới đây, chúng ta sẽ xem xét một số nguồn gốc dẫn đến tình
trạng căng thẳng (stress) của nhân viên và làm thế nào để quản lý được
tình trạng đó. Khi bạn đang đọc phần này, hãy luôn nhớ rằng sự căng
thẳng có xu hướng lan rộng. Thường thì một người có thể làm nảy
sinh sự căng thẳng ở những người khác, ngay cả khi người này ít
hoặc chẳng cảm thấy bản thân căng thẳng chút nào. Bạn có nhớ đến Typhoid
Mary? Bà ta đã cố tình lây bệnh thương hàn tới hàng trăm người
khác và bản thân bà ta thì không bao giờ bị bệnh. Stress cũng
tương tự như vậy, nhiều người cảm nhận được nó và làm lây lan nó mà
không hề cảm thấy gì về điều đó. Trong trường hợp của Hector, anh
ta vừa cảm thấy căng thẳng, vừa khiến nó lan rộng. Nếu nhà quản lý cảm
thấy căng thẳng thì có lẽ không cần tưởng tượng nhiều cũng biết được
những tác động của nó đối với nhân viên.
Nguồn gốc của sự căng thẳng
Mọi
thứ đều là nguồn gốc tiềm tàng của sự căng thẳng. Ngay cả đối với những
thứ đang vận hành rất tốt, thì chúng ta vẫn lo lắng về việc chúng sẽ
trở nên tồi tệ đi. Rất nhiều người sống với những yếu tố mà họ hầu như
không điều khiển được, nhưng điều kỳ diệu là hầu hết mọi người lại không
để sự lo lắng đó chiếm hết thời gian. Một nhà quản lý phải để ý đến
những nguồn gốc của sự căng thẳng nhằm điều khiển được nó. Sau khi xem
xét nguồn gốc của sự căng thẳng, chúng ta sẽ thảo luận về những dấu hiệu
hay triệu chứng của tình trạng này mà người quản lý cần biết. Nên nhớ
rằng, một hoàn cảnh có trở nên căng thẳng hay không luôn phụ
thuộc vào sự cảm nhận của người đó trong hoàn cảnh đó. Những
thứ khiến Fred căng thẳng có thể không khiến Lucy căng thẳng, và thực tế
những gì khiến Hector căng thẳng chính là tấm gương phản ảnh về nhu cầu
cá nhân của anh ta và ý thức về cá tính liên quan.
Chúng
ta sẽ thảo luận về ba nguyên nhân gây nên sự căng thẳng, đó là: Sự mơ
hồ trong công việc, công việc chưa làm xong (đặc biệt là công việc quá
tải), và những kỳ vọng không rõ ràng của nhà quản lý. Chắc chắn còn rất
nhiều nguyên nhân khác đáng được chú ý nữa, nhưng trong khuôn khổ ở đây
chúng ta sẽ chỉ bàn đến ba nguyên nhân này.
Sự mơ hồ trong công việc
Một
số người có khả năng chịu đựng sự mơ hồ trong công việc cao hơn so với
người khác. Thực tế, nhiều cá nhân lại thích thách thức trong việc tạo
ra một cơ cấu của mình – điều mà đối với những người khác có thể là một
sự hỗn độn. Với những người lao động thích một môi trường làm việc
tương đối vững vàng, nơi họ được cung cấp tất cả các thông tin cần
thiết để thực hiện công việc của mình, sự mơ hồ, nhập nhằng trong công
việc sẽ khiến sự tự tin của họ bị lung lay và nó trở thành nguồn gốc
của sự căng thẳng. Nếu tình trạng trên diễn ra trong thời gian dài sẽ
làm giảm hiệu năng trong công việc của họ. Hầu hết nhân viên chỉ yêu cầu
có đủ thông tin nhằm giảm sự bấp bênh, đạt tới mức độ thuận lợi nào đó
trong công việc. Khi mức độ thuận lợi biến đổi từ người này sang người
kế tiếp, thì điều quan trọng là xác định những gì cá nhân đó cần và
xác định tại điểm nào thì mức độ thông tin trở thành yêu cầu quá mức.
Lucy
thích có mọi thông tin liên quan đến công việc, vì cô có thể đưa ra các
quyết định tốt nhất dựa trên những dữ liệu thực. Fred thiên về trực
giác hơn, và vì vậy anh hài lòng với việc có ít thông tin hơn Lucy; và
Fred sẵn sàng tạo ra nhiều lời hứa hẹn hơn Lucy. Thực tế, bất cứ
khi nào Larry đưa ra quá nhiều thông tin hơn Fred mong muốn, anh thường
không nghe nữa. Điều này khiến cả Lucy và Larry phát bực nhưng họ đã học
được cách đọc ra các dấu hiệu và biết khi nào nên dừng lại. Hector, như
bạn còn nhớ, có những dấu hiệu của sự căng thẳng, biểu hiện dưới dạng
có những hành vi ứng xử bất thường được lặp đi lặp lại, do tình hình còn
khá mơ hồ và rất không chắc chắn đối với anh ta cho đến khi Larry can
thiệp.
Vì
có sự khác nhau giữa những người thể hiện sự chịu đựng của họ, hay thậm
chí là thích thú với sự nhập nhằng trong công việc cũng như có sự khác
biệt giữa những môi trường công việc khác nhau đối với sự nhập nhằng
này, nên một phần quan trọng trong công việc của nhà quản lý là tìm kiếm
sự phù hợp giữa mức độ chịu đựng của một người với mức độ mơ hồ của
công việc. Trong một vài trường hợp, có thể dự báo trước được rằng, tình
trạng công việc vốn là mơ hồ và tuyển dụng người phù hợp nhất cho tình
huống đó. Tuy nhiên, hầu hết vị trí công việc đều biến đổi theo thời
gian, gắn với từng thời kỳ ổn định hay không ổn định. Điều tốt nhất mà
một nhà quản lý nên làm là cố gắng giúp đỡ và hỗ trợ nhân viên vượt qua
thời kỳ không ổn định. Larry đã làm vậy để giúp đỡ Hector và ông cũng
nhận ra rằng: Trong tương lai, nếu xảy ra tình hình tương tự, ông có thể
tiến hành các hoạt động nhằm ngăn chặn những vấn đề nghiêm trọng nảy
sinh ảnh hưởng đến sự phát triển. Bài học rút ra ở đây là: Trong
hoàn cảnh nếu hiểu được sự thay đổi mức độ chịu đựng mà nhân viên đang
đối mặt thì nhà quản lý có thể giúp các nhân viên đó thực hiện công việc
trong suốt thời kỳ bất ổn tốt hơn.
Công việc chưa kết thúc
Xu
hướng tự nhiên của con người là luôn tìm cách kết thúc việc đang
làm. Có một câu chuyện nổi tiếng về một nhà soạn nhạc vĩ đại, người đã
nghe một đoản khúc bị ngắt trước khi nó được kết thúc; ông buộc
phải tiến lại chiếc đàn piano và hoàn thành nốt bản nhạc đã nghe. Những
công việc chưa kết thúc tạo nên sự căng thẳng, một cảm giác không lấy
gì làm dễ chịu và thường xuyên lấn sang những thứ khác. Đã bao nhiêu
lần bạn để lại công việc còn làm dở trong phòng làm việc chỉ
để thấy rằng nó luôn xuất hiện bất ngờ trong tâm trí của
bạn? Bạn đã bao giờ quay lại văn phòng làm nốt việc chỉ vì bạn không
thể chịu được sự căng thẳng mà nó gây ra? Một số người đã làm như vậy.
Họ thấy rằng, điều đó giúp họ ngủ dễ hơn vì những công việc chưa kết
thúc sẽ không xâm chiếm cái góc bình yên trong tâm trí của họ.
Có
thể là sự quá tải trong công việc là một yếu tố chính khiến
cho công việc chưa thể hoàn thành. Các nhà quản lý thường phân công
một loạt công việc mà không để ý đầy đủ về khối lượng công việc nhân
viên phải gánh vác, đặc biệt là trong các tổ chức kém cỏi và ưa xu nịnh
như ngày nay. Thường thì các nhân viên xuôi theo quy trình bằng cách
chấp nhận những công việc làm thêm, có thể do họ sợ phải nói tiếng
“không” với ông chủ hoặc họ tin rằng mình có thể làm thêm được công việc
này mà không quá căng thẳng. Tuy nhiên, nếu tình trạng này diễn ra
trong một thời gian dài thì ngay cả vài công việc đơn giản cũng trở nên
khó hoàn thành. Thực tế một đống công việc chưa làm xong sẽ tích tụ
thành một mức độ căng thẳng nào đó khiến hiệu quả công việc giảm sút. Và
nếu tất cả những điều này diễn ra thường xuyên, người ta phải cố gắng
thúc đẩy chúng bằng cách làm thêm ngoài giờ, mang về nhà làm hoặc làm
mọi cách để hoàn thành - chỉ đến khi nhận ra chất lượng công việc của
mình, họ mới không hoàn thành công việc bằng mọi cách. Là một nhà quản
lý, bạn cần phải đề phòng những trường hợp như vậy. Một phần nó phản ánh
sự tận tâm của nhân viên với công việc, nhưng một phần nó cũng phản ánh
nỗi sợ hãi những sai lầm có thể xảy ra hay sợ cảm thấy xấu hổ trong mắt
người khác, đặc biệt là trong con mắt ông chủ. Thông thường thì nhân
viên sẽ không bày tỏ vấn đề này để mong được ông chủ chú ý,
chỉ đến khi ông ta đề cập đến vấn đề và tìm cách giảm tải
áp lực công việc cũng như giúp nhân viên hoàn thành nhiệm vụ.
Do đó, hãy luôn nhớ rằng: Nếu một nhà quản lý càng cảnh báo về
sự chồng chất công việc cho các nhân viên thì tốt hơn hết là
họ nên quan tâm đến những thay đổi cần thiết trong sự chồng
chất đó khi chúng đang gây ra sự căng thẳng cho họ.
Những kỳ vọng nghèo nàn về vai trò của công việc đã xác định
Vấn
đề công việc chưa làm xong thường là do lỗi của một nhà quản lý, ông ta
đã không xác định được kỳ vọng về vai trò với nhân viên. Những kỳ
vọng không rõ ràng hoặc bị hiểu không đúng cũng thường xuyên gây ra cho
nhân viên những căng thẳng nhất định- và thường là ở mức độ cao. Tương
tự, những kỳ vọng không thực tế trong con mắt của một cá nhân cũng có
thể tạo nên những áp lực không cần thiết lên người đó khi anh/cô ta
không định hình được mức độ hợp lý. Tình trạng này thường sẽ không kéo
dài và đòi hỏi phải có sự thương lượng lại giữa nhà quản lý và nhân
viên.
Một
trong những yếu tố gây căng thẳng cho Hector chính là khuynh hướng mà
anh ta mơ hồ về những kỳ vọng của Larry và người khác dành cho mình.
Hector đoán rằng vai trò của anh ta là thực hiện theo sự chỉ bảo của nhà
quản lý và rằng việc đưa ra các ý kiến của riêng mình không phải là
phần việc của anh ta. Khi Larry và Hector bàn luận lại những gì Hector
coi là kỳ vọng của ông, tình hình đã được ổn định lại và Hector có thể
xác định hoàn toàn rõ ràng về những kỳ vọng của ông sếp đối với mình.
Rất
thường xuyên, nhân viên có xu hướng tránh bàn luận hoặc tái xác định
những kỳ vọng chủ yếu của ông chủ đối với mình, đặc biệt khi hành động
này thường được hiểu nhầm là một hành động mềm yếu. Đáng tiếc thay,
vấn đề này không tự nó “ra đi” mà thậm chí còn trở nên ngày càng tồi tệ
và gây ra căng thẳng, khiến nó trở nên đặc biệt khó khăn để có thể bàn
luận một cách thiện chí. Sự căng thẳng và tức giận ngăn cản sự lắng
nghe, các bên đều có xu hướng đổ lỗi cho nhau hơn là cùng nhau cố gắng
giải quyết vấn đề và kết quả là những hành động quá đáng diễn ra như vấn
đề đuổi việc, kỷ luật... Mặc dù một kịch bản như vậy có thể không cần
thiết và chúng ta tự hỏi tại sao lại không “ngắt” đi ngay khi nó còn
mới là một cái chồi non. Thực tế có rất nhiều người luôn tìm cách
tránh những tình huống không hay cho đến khi chúng nổ tung trước mặt
họ.
Trong trường hợp của Hector, Larry phải bắt đầu đưa vấn đề ra bàn thảo khi Hector cảm thấy không thể làm điều đó.
Trường
hợp điển hình này thường diễn ra khi có sự khác biệt về quyền lực giữa
hai người. Người ở vị trí có quyền lực mạnh nhất phải tạo ra cách
tiếp cận giữa hai bên. Người có quyền lực - trong trường hợp này là
nhà quản lý - phải nhạy cảm với những dấu hiệu và “triệu
chứng” của vấn đề sẽ được tiếp tục thảo luận. Về điểm này, chúng tôi
có thể đưa ra lời khuyên: Nếu một nhà quản lý càng thường xuyên
khơi mào các cuộc thảo luận về kỳ vọng công việc với nhân viên thì nhân
viên càng dễ dàng tránh được căng thẳng do hiểu không rõ ràng hoặc hiểu
lầm kỳ vọng của sếp dẫn đến những sai sót trong thực hiện công việc.
Những biểu hiện của căng thẳng
Chúng
ta sẽ thấy có vài hành vi ứng xử được coi là bình thường đối với mọi
người. Chỉ khi những hành vi này được lặp lại liên tục trong một thời kỳ
dài và/hoặc khi một loạt hành vi xảy ra cùng một lúc thì bạn cần phải
lưu tâm đến yếu tố căng thẳng. Ví dụ, một nhân viên đến công sở muộn
hoặc không làm việc có lẽ là một hành vi bình thường trong một giới hạn
thông thường. Nhưng khi những hành vi này được lặp đi lặp lại, hoặc khi
nó kết hợp với những bữa ăn trưa kéo dài hơn mức thường và những cơn
giận dữ bất ngờ nổ ra tại nơi làm việc thì có thể coi đó là dấu hiệu của
sự căng thẳng. Thêm vào đó, việc xét đoán những hành vi ứng xử đặt
trong hoàn cảnh của cá nhân đó là rất quan trọng. Một ai đó vốn dè dặt
và khá khác biệt bất ngờ trở nên ồn ào sẽ bị coi là khác thường so với
một người vốn thường ngày hay ồn ào và sôi nổi. Ngược lại, người quan
tâm đến những vấn đề xung quanh và hay nói bỗng bất ngờ rút khỏi các
cuộc nói chuyện về xã hội thì gần như là biểu hiện của căng thẳng. Nói
tóm lại, không nên đánh giá về bản thân của hành vi mà cần đánh
giá hành vi gắn liền với hình mẫu bình thường của một cá
nhân.
Nên
lưu ý rằng, mặc dù một hành vi ứng xử đặc thù có thể dẫn đến căng thẳng
trong tổ chức này song điều đó cũng không có nghĩa là sẽ xảy ra đối với
một tổ chức khác. Một cá nhân vốn ưa thích những chỉ dẫn rõ ràng cho
công việc của mình có lẽ cũng không thấy căng thẳng khi làm việc trong
một doanh nghiệp khoán việc. Ngược lại, một người thích những thách thức
khi phải đối mặt với những vấn đề mới và không mong đợi cũng có thể
thấy công việc trong một tổ chức lớn, có tính kỷ luật cao không đến nỗi
không thể chịu đựng nổi.
Nếu
Hector làm việc trong một công ty bảo hiểm ở Mỹ La tinh thì sự phụ
thuộc của anh ta vào ý kiến hay yêu cầu của người khác sẽ không gây ra
những hậu quả tương tự như khi anh ta làm việc trong một công ty của Mỹ.
Tại Mỹ La tinh, với tư cách là một nhân viên, những kỳ vọng chính yếu
của cấp trên có lẽ cũng sẽ phù hợp với anh ta hơn.
Người
quản lý cần chú ý đến những biểu hiện của sự căng thẳng đã thể hiện rõ
như sự bộc phát về cảm xúc hay những hành vi đến muộn diễn ra liên
tục. Những biểu hiện căng thẳng cũng có thể rất khó phát hiện, ví dụ
như đau đầu, dạ dày nôn nao, kiệt sức, khó ngủ và những biểu hiện tương
tự - những biểu hiện này thường chỉ xuất hiện khi con người bị căng
thẳng. Những chú ý thận trọng đến những hành vi ứng xử tiêu biểu thường
thấy của một nhân viên sẽ giúp các nhà quản lý nhanh chóng nhận ra những
dấu hiệu này. Cuối cùng, chất lượng công việc tự bản thân nó cũng có
thể đưa ra những biểu hiện rõ ràng của sự căng thẳng.
Một
vài kinh nghiệm thực tế mà bạn có thể áp dụng cho mình hoặc cho cấp
dưới như một cách để giảm hoặc ngăn chặn trạng thái căng thẳng quá
mức là:
1. Duy trì nhận thức về những dấu hiệu của căng thẳng.
2. Biết
rõ mức độ chịu đựng của bạn đối với sự mơ hồ trong công việc và tìm
kiếm những thông tin cần thiết sau đó để tiếp tục chịu đựng.
3. Đưa ra các ưu tiên và chỉ nên tập trung vào những nhiệm vụ thực sự cần thiết.
4. Nghỉ ngơi đúng mức trong quá trình làm việc nhằm duy trì được sự tập trung.
5. Đánh giá được mức độ tham gia cần thiết của bạn đối với công việc và ủy nhiệm hay chia sẻ công việc càng nhiều càng tốt.
6. Thường xuyên xem xét và bàn bạc lại về những kỳ vọng chủ yếu nhằm ngăn chặn hoặc giảm thiểu những công việc chưa làm xong.
Cũng có rất nhiều cách giảm căng thẳng khác mà bạn có thể đưa ra cho mình, nhưng điều quan trọng là bạn phải luôn nhớ rằng: Càng để tình trạng căng thẳng kéo dài bao lâu thì bạn càng khó đối mặt trực tiếp và giải quyết hiệu quả vấn đề đó bấy nhiêu. Đây là bài học mà nhiều người có vẻ như phải học rất nhiều lần mới thấu hiểu được.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét